1. Đào tạo những chuyên gia quản trị thông tin trong kỷ nguyên số
Theo Ngân hàng thế giới (World Bank), chúng ta đang bước vào nền kinh tế tri thức (KTTT) mà ở đó tri thức và thông tin được sử dụng như một nguồn lực để phát triển kinh tế và xã hội. Tổ chức Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – APEC khẳng định: quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức và thông tin trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.
QTTT là một ngành khoa học liên ngành về tổ chức và khai thác thông tin bao gồm: thu thập thông tin,
xử lý thông tin, tổ chức thông tin, phân tích đánh giá và phân phối thông tin tới người dùng sao cho đạt hiệu quả cao nhất, nghĩa là cung cấp thông tin đúng nhu cầu, đúng đối tượng, đúng thời điểm và đúng phương tiện. Mục tiêu của chương trình là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực
quản lý thông tin nhằm phục vụ phát triển KTTT trong bối cảnh chuyển đổi số. Cụ thể là đào tạo ra những chuyên gia thông tin có tư duy logic và hệ thống, có khả năng hoạch định chiến lược trong việc quản trị thông tin cho các doanh nghiệp và các tổ chức hay các cơ quan chính phủ; qua đó biến thông tin thành một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển cũng như tạo ra lợi thế cạnh tranh. Chuyên gia thông tin có năng lực tư vấn xây dựng hệ thống thông tin; biết cách thu thập, đánh giá, phân loại và xử lý, tổng hợp và phân tích, phân phối và
quản lý thông tin; đồng thời tư vấn việc khai thác và sử dụng thông tin một cách hiệu quả. Tóm lại, chương trình hướng tới đào tạo
những chuyên gia thông tin trong kỷ nguyên số. Có hình dung thế này trong bối cảnh bùng nổ thông tin thì google có thể cung cấp cho bạn 1000 kết quả, nhưng chuyên gia thông tin chỉ đưa cho bạn duy nhất một câu trả lời đúng.
Nắm bắt nhu cầu về nguồn nhân lực mới này, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã chính tuyển sinh Cử nhân chất lượng cao ngành
Quản lý thông tin bắt đầu từ năm 2019, chất lượng tiệm cận quốc tế. Chương trình được xây dựng trên cơ sở chương trình đào tạo của Trường Đại học Loughborough, Vương quốc Anh. Đội ngũ giảng viên có hai nguồn: một là nhóm giảng viên cơ hữu được đào tạo bài bản tại các trường đại học trong nước và quốc tế như: Victoria of Wellington, QUT (Australia), RMIT, New South Wales….; hai là nhóm giảng viên người nước ngoài của chính những trường đại học này.
2. Áp dụng phương giảng dạy tích cực và chú trọng đến ứng dụng thực tế
Triết lý đào tạo của chương trình gói gọn trong chữ COVA: sinh viên là trung tâm của tiến trình học tập. Theo đó, sinh viên được quyền lựa chọn (
C - choice), được làm chủ (
O - ownership), được nói lên tiếng nói của mình (
V - voice) thông qua những cơ hội học tập trải nghiệm thực tế (
A - authentic learning opportunities). Hướng tới đào tạo một nhân lực lao động có chính kiến, sáng tạo, trách nhiệm và linh hoạt.
Đặc điểm nổi bật của chương trình là áp dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến như project-based learning (học theo dự án), blended learning (phương pháp học tập hỗn hợp giữa dạy trên lớp và dạy trực tuyến); 100% môn học được ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập; tổ chức học kỳ doanh nghiệp từ cuối năm thứ nhất và triển khai trong suốt quá trình học; 30% môn học chuyên ngành được giảng dạy bằng tiếng Anh; cam kết hỗ trợ việc làm cho người học.
Cụ thể, học kỳ doanh nghiệp chiếm một lượng lớn trong chương trình, với 20 tín chỉ. Sinh viên đi thực tập tại doanh nghiệp từ cuối năm thứ nhất để các em có khái niệm về hoạt động thực tế bên ngoài. Như vậy, khi quay trở về trường, do đã hiểu biết ít nhiều về môi trường doanh nghiệp, các em sẽ biết phải học thế nào để đáp ứng được yêu cầu thực tế công việc.
Trong chương trình đào tạo, tất cả các môn học chuyên ngành, sinh viên đều học theo phương pháp học qua dự án. Phương pháp này khích lệ, hướng dẫn và tạo ra môi trường để sinh viên làm việc cá nhân hoặc theo nhóm với một đề tài nghiên cứu cụ thể. Nghĩa là, giảng viên sẽ giới thiệu, hỗ trợ, dẫn dắt và giúp đỡ các em lựa chọn đề tài để triển khai thành một dự án nghiên cứu nhằm thực hiện môn học. Phương pháp này thúc đẩy nhiệt huyết cho sinh viên đồng thời buộc sinh viên phải tham gia một cách rất tích cực, chủ động vào việc học.
Tất cả các môn học đều được quản lý giảng dạy theo phương thức blended learning, nghĩa là sinh viên sẽ học cả học trực tuyến (online) và học trên lớp (offline). Nhà trường thiết lập một hệ thống quản lý học tập trực tuyến để triển khai các môn học, trong đó có các công cụ để sinh viên có thể học, trao đổi, tương tác với thầy cô trên nền tảng Internet. Đồng thời, nhà trường cũng chuẩn bị một nguồn học liệu số chất lượng để sinh viên có thể sử dụng trực tuyến phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu của mình.
3. Lồng ghép tư duy khởi nghiệp trên nền tảng kiến thức quản trị thông tin
Về cơ bản, sinh viên ngành
Quản lý thông tin được học 4 nhóm kiến thức:
- Một là khoa học về thông tin tức là phương thức để thu thập, đánh giá, xử lý, tổ chức, phân phối và sử dụng thông tin.
- Thứ hai là khoa học về quản lý. Các môn học như phân tích hệ thống, tư duy hệ thống, quản trị dự án… sẽ giúp người học có một tư duy logic, đa chiều và tổng quát.
- Thứ ba là nhóm kiến thức về công nghệ thông tin. Tất nhiên, họ nhất thiết phải giỏi như những sinh viên trường công nghệ thông tin nhưng họ có một nền tảng kiến thức cơ bản về công nghệ thông để làm chủ các công cụ trong việc tổ chức, xử lý, phân tích và phân phối thông tin.
- Thứ tư là nhóm kiến thức về quản trị kinh doanh.
Trong bối cảnh hiện nay, có đến 90% sinh viên ra trường làm việc ở các doanh nghiệp và tư duy khởi nghiệp đang rất thịnh hành, do đó chương trình được lồng ghép tư duy này. Thực tế, quản trị thông tin không chỉ là quản trị thông tin doanh nghiệp mà còn là quản trị thông tin trong tổ chức, trong lĩnh vực công. Tuy nhiên, tại thời điểm đầu tiên triển khai chương trình, chương trình hướng tới quản trị thông tin doanh nghiệp nhiều hơn, do đó sinh viên phải có kiến thức, năng lực về quản trị kinh doanh.
4. Đáp ứng nhu cầu nhân lực của nền kinh tế số
Sau khi tốt nghiệp ngành QLTT, cử nhân có thể đảm nhận nhiều vị trí công việc, trong nhiều khu vực khác nhau. Theo tổ chức, họ có thể làm việc trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp xã hội, tổ chức phi chính phủ và các hội nhóm cộng đồng. Theo ngành nghề, họ có thể làm việc trong các lĩnh vực như:
quản lý thông tin, công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, kinh doanh, y tế, giáo dục, giao thông vận tải, điều tra xã hội, nghiên cứu thị trường, phân tích dữ liệu...
Các vị trí công việc có thể chia làm 3 nhóm. Nhóm 1 là chuyên viên
quản lý thông tin và hỗ trợ kinh doanh gồm: chuyên gia phân tích và
thiết kế hệ thống thông tin; chuyên gia tư vấn xây dựng hệ thống thông tin; chuyên gia phân tích
quản lý thông tin; chuyên viên phân tích thông tin; chuyên viên phân tích số liệu; chuyên viên phân tích
SEO; chuyên viên quản trị nội dung; chuyên viên
quản lý thông tin và dữ liệu... Nhóm 2 là chuyên gia quản trị thông tin, cụ thể là
giám đốc thông tin trong các cơ quan, tổ chức hay doanh nghiệp – dĩ nhiên nhóm này cần phải có thời gian tích lũy kinh nghiệm và chuyên môn. Nhóm 3 là giảng viên, nghiên cứu viên, tư vấn viên về lĩnh vực quản trị dữ liệu, thông tin và tri thức.
Trong bối cảnh thông tin và nền kinh tế tri thức thì mỗi tổ chức, doanh nghiệp đều có nhu cầu về QTTT, do đó nhu cầu về nhân lực QTTT sẽ rất lớn.